HÀNH
HƯƠNG ĐỀN THÁNH GIUSE VÀ ĐỀN THÁNH ANNA
(ST
JOSEPH’S ORATORY and ST
ANNE- DE –BEAUPRÉ SHRINE)
June-30-2011 to July-1-2011
Vợ chồng tôi chỉ gặp cha
Phêrô Nguyễn Văn Phong giám đốc Tu Đoàn Nhà Chúa một lần trong một đám tang của
người quen. Sau đó cha và tôi cũng trao đổi một vài tin tức, một vài bài viết
hay hay của ai đó. Thế thôi. Cha ở New Orleans Hoa Kỳ, còn tôi ở Brampton, tỉnh
bang Ontario Canada. Trong dịp Hội Bảo Trợ Tu Đoàn nhà Chúa kỷ niệm 15 năm
thành lập, cha có ngỏ ý mời vợ chồng chúng tôi cùng đi Hành Hương với cha lên
đền Thánh Cả Giuse ở Montreal và Vương cung thánh đường Thánh Anna, thuộc tiểu
bang Quebec, Canada. Phái đoàn gồm có các thày và hơn 10 anh chị từ bên New
Orleans qua Canada để đi cùng với phái đoàn của Cha Vincent Kim Văn Toan.
Vợ chồng tôi đã đến đền thánh Giuse ở Montreal
nhiều lần và cũng có lần đến kính viếng Vương Cung Thánh Đường bà thánh Anna ở
Quebec city trong dịp Ðại Hội Thánh Thể toàn quốc được tổ chức ở đây. Tuy nhiên
khi nhận được lời mời của cha Phong, tôi vẫn háo hức muốn đi và tôi nhận lời
ngay. Sau đó, tôi lại ngập ngừng không muốn đi nữa vì trong phái đoàn Hành Hương
của cha tôi chẳng quen ai, ngoại trừ cha Phong.
Nhưng có một cái gì đó thúc đẩy trong tôi làm
tôi cứ muốn đi, cứ muốn đến kính viếng thánh cả Giuse và Thánh Anna. Để chiến
đấu với những lo âu và ngại ngùng, tôi làm một quyết tâm là mỗi sáng tôi cố
gắng đi dự thánh lễ tại nhà thờ thánh Anna gần nơi tôi ở. Tôi đã kêu cầu Bà
Thánh Anna mở lòng tôi, để tôi được lòng mến bà như Bà Ngoại của tôi. Thế rồi,
ngày qua ngày tình cảm yêu thương của thánh Anna nhè nhẹ đi vào hồn tôi, để rồi
sau đó tội gọi thánh Anna là Ngoại lúc nào không biết và tôi nhất quyết đi đến
đền thánh dành riêng để tôn kính bà Ngoại của tôi. Tôi tự nhủ lòng: “Trước lạ
sau quen. Sợ gì. Đến thăm Ngoại chứ bộ!”
Sáng sớm ngày 30 tháng 6 năm 2011, năm anh chị
em chúng tôi là anh chị Lộc-Ðào, Lộc-Phượng và tôi đã đến điểm hẹn. Thế nhưng,
giờ hẹn đã đến, nhưng vẫn chưa thấy xe bus tới. Chúng tôi hồi hộp vì sợ xe bus
không biết điểm hẹn và bỏ chúng tôi lại. Vừa thoáng thấy xe bus loại du lịch, tôi
reo lên: “Xe tới kìa, chạy theo đi”. Nhưng chồng tôi phán ngay cho một câu làm
tôi cụt hứng: “Ngon dữ. Biết đâu xe đó là của phái đoàn khác thì sao?” Tôi quả
quyết: “Ðúng mà. Cha Phong vừa gọi xong”. Tôi sợ xe không biết đường quay lại,
nên vội vàng đi nhanh đến ngã tư để ra dấu hiệu. Tôi mừng vì đúng là xe bus chở
phái đoàn hành hương vì xe đang tìm đường quay ngược trở lại. Dù chồng tôi không
đi vì bận công chuyện, nhưng cũng bước lên xe chúc mọi người đi hành hương vui
vẻ và bằng an. Một chị cười nói với chồng tôi: “Tưởng anh lên xe đi. Ai ngờ chỉ
chào hỏi thôi.” Sau này chồng tôi kể, vừa bước lên xe chào mọi người, cha Toan đã
đứng lên niềm nở bắt tay làm chồng tôi cảm động.
Xe lăn bánh và trực chỉ xa lộ 401 về phía Ðông để
đi Montreal. Xe chạy chưa được bao lâu, cha Phong đã vui vẻ lên tiếng: “Chắc bà
con đói bụng rồi. Chúng ta ăn sáng!”. Thế là mọi người ngồi trong xe vui hẳn lên
và mỗi người nhận được một ổ bánh mì thật lớn và một chai nước lạnh. Tôi không
quen ăn sáng vì còn quá sớm. Nên tôi vội cất vào túi xách vì nghĩ là không thể
ăn hết nổi ổ bánh mì bự tổ chảng này được! (To bằng ổ bánh mì Subway) Lỡ ăn vào
rồi lại uống nước nữa, bánh mì trong bụng nở ra thì làm sao bụng tôi chịu cho nổi!
Ôi thôi..., tôi thương cái bụng tôi quá! Tôi liếc tới liếc lui, liếc qua liếc lại
nhìn mọi người, ai cũng tay cầm chai nước, tay cầm ổ bánh mì ăn một cách hết sức
ngon lành. Tôi quay sang hỏi chị bạn: “Bánh mì ngon không chị? Chị vui vẻ thúc
giục: “Ăn đi, bánh họ làm ngon lắm!” Nghe nói “ngon lắm” tự nhiên tôi bắt thèm,
nên lấy ổ bánh mì ra, bẻ một nửa vì nghĩ mình chỉ có thể ăn hết một nửa là
nhiều. Thế rồi chỉ một thoáng, tôi ăn hết cả ổ chứ không phải một nửa đâu! Phải
nói là ngon thiệt là ngon! Có lẽ ổ bánh mì ngon vì tất cả tình thương mà cô
Ngọc, cô Phượng đã đặt vào đó. Tôi được biết, hai cô đã thức hầu như suốt đêm
để bỏ vào ổ bánh mì nào là thịt nguội kèm theo là miếng dưa và cọng ngò thơm.
Chất béo, chất ngọt của thịt nguội hòa lẫn với mùi ngò thơm làm cho ổ bánh ngon
hơn, thơm hơn. Thơm hơn là phải vì nó không chỉ có mùi thơm của ổ bánh mì, nhưng
còn mùi thơm của Ban tổ chức đã quan tâm và lo lắng cho mọi người trong đoàn hành
hương. Tôi ngẫu hứng viết vài câu thơ dưới đây để tặng Ban tổ chức:
Bánh mì
ngon thật là ngon
Thịt
Ham*, thêm chút cọng ngò thơm tho.
Ăn vào
ngon miệng, lại no.
Cám ơn
người có công lo cho đoàn…
Và:
Cám ơn
dù có vạn lần
Vẫn
chưa nói hết một phần công lao
Cầu xin lòng mến dạt dào
Tiếng lòng cám tạ, tình trao, trao hoài!
Vừa ăn điểm tâm xong, cha Phong mời mọi người lần
chuỗi Mân Côi. Thú thật nghe cha nói, tôi cảm thấy ngán ngẩm. Tôi lẩm bẩm trong
bụng: “Cha ơi, mới ăn xong làm sao đọc kinh cho nổi! Buồn ngủ muốn chết.” Dù
sao, tôi cũng đọc theo mọi người. Nhưng chưa hết một chục kinh thì ai đọc mặc
ai, hồn tôi bay bỗng nơi nao, tôi chả biết. Có ai đó làm rớt chai nước, tôi giật
mình mở hai con mắt ra và ú ớ thưa “Amen” một mình! Chắc là tiếng thưa nhỏ quá
nên không có ai nghe thấy. Nếu không thì bị quê một cục! Cha Phong à, lần sau cha
cho đọc kinh trước rồi ăn sau. Nếu không, cha đọc một mình đó!
Không ngờ, cha quan tâm và lo lắng cho mọi người
y như người mẹ hiền chăm sóc con cái. Ổ bánh mì hãy còn lũng bũng lội nước trong
bụng thì cha lại nhắc người có trách nhiệm cho mọi người ăn trái cây. Trời đất,
bụng nào chứa cho nổi, trong bụng nghĩ như vậy nhưng lại không dám phản đối khi
cái miệng mở lớn ra đón nhận những trái cây thơm ngon và ngọt lịm vào! Rõ mâu
thuẫn! Mà không biết cô nào chị nào khéo tay rứa. Trái cây được sắt ra từng miếng
nhỏ rồi bỏ vào hộp ướp cho lạnh. Ăn miếng nào, mát tới ruột gan miếng đó. Tôi
có cảm tưởng đang ngồi trên máy bay hạng Business. Tôi thầm nghĩ, anh chàng nào
có phước mới gặp đuợc cô vợ như thế. Nghe đâu trong Giáo xứ của cha Toan, các
bà các cô đều hết lòng, còn các ông thì hết sức để lo cho cộng đoàn lớn mạnh.
Do đó mà nhìn cha Toan lúc nào cũng cười tươi vui vẻ và ngày càng trẻ ra. Tạ ơn
Chúa!
Xe chạy bon bon từ Toronto đến Kingston rất
nhanh (cách Toronto chừng 250km). Ai cũng hớn hở vì nếu cứ theo đà này, đoàn hành
hương sẽ đến đền thánh Giuse ở Montreal khoảng 1 giờ trưa. Sau đó, anh chị em sẽ
tha hồ đi cầu nguyện, tham quan đền thánh và mua quà lưu niệm…. Nếu còn giờ đoàn
hành hương sẽ được đưa đi thăm Vương Cung Thánh Đường Notre-Dame. Thế nhưng mọi
dự tính đều không được như ý vì gần tới Montreal thì bị kẹt xe quá chừng…Gần 3giờ 30 xe mới tới đền Thánh Giuse được.
*Tôi xin sơ qua về đền
Thánh cả Giuse. Người Việt mình hay gọi như thế, nhưng chính ra đền thánh đã
được Giáo Hội nâng lên Vương Cung Thánh Đường vì thánh Giuse là thánh bổn mạng
nước Canada và Thế Giới, cũng là nơi khách thập phương từ khắp nơi tuôn về để
cầu xin Thánh Cả Giuse.
VCTĐ Thánh Giuse do thày André Bessette xây cất
để đặc biệt tôn kính thánh Giuse mà thày hết lòng yêu mến. Thày André sinh
năm1845 trong một gia đình rất nghèo. Năm 12 tuổi bố mẹ thày qua đời. Bị mồ côi
cả cha lẫn mẹ ở lứa tuổi 12, thày phải tự lập để kiếm sống. Sau đó thày xin gia
nhập vào tu Dòng Thánh Giá. Nhưng vì sức học quá kém nên bề trên giao cho thày
nhiệm vụ gác cổng mà thôi. Trong nhiệm vụ này, thày đã sống một cuộc đời thật
đơn hèn, khiêm nhường và vui vẻ với tất cả những người mà thày gặp gỡ và luôn
kết hợp mật thiết với Chúa trong lời cầu hằng phút giây. Qua Thày André, Chúa đã
chữa lành cho biết bao người về phần xác và ơn hối cải để trở về với Chúa.
Tiếng lành về lòng đạo đức của thày lan khắp nơi, thu hút bao nhiêu người đến
đây hành hương. Thày nói với mọi người rằng, chính Thánh Cả Giuse cầu bầu, Chúa
đã chữa lành chứ không phải là thày. Thày
có ý định xây một nhà nguyện để kính Thánh Cả và là nơi để mọi người đến cầu
nguyện. Do đó nhà nguyện tiên khởi được xây vào năm 1904 và đến năm 1910 thì
hoàn thành. Tuy nhiên nhà nguyện này vẫn còn quá nhỏ so với nhu cầu ngày càng
đông giáo hữu khắp nơi đổ về. Vì thế dự án xây cất một đại thánh đường được khởi
công với sự đóng góp quảng đại của rất nhiều người. Tầng hầm (Crypt) hoàn tất
năm 1917 và có thể chứa đến 1000 người tham dự thánh lễ. Nơi đây thánh lễ được
dâng đủ mọi ngôn ngữ. Từ 8 giờ sáng đến tối, cứ cách một giờ lại có thánh lễ.
Cũng trong tầng hầm này bên ngoài chỗ thắp nến cầu nguyện có tượng Thánh Cả
Giuse thật lớn được đặt trên cao và hàng nến từ trên xuống dưới nhiều vô kể vì
mỗi người khi đến đây thường thắp nến cầu nguyện. Hai bên tả hữu của thánh đài
chính ta lại thấy có nhiều hình Thánh Cả tùy theo nhiệm vụ mà Thánh Cả phù trì.
Chỗ tượng Thánh Cả chữa người đau ốm bệnh tật. Chỗ này có rất nhiều nến được
thắp sáng. Tôi nghĩ có lẽ ai cũng cầu xin thánh cả chữa bệnh phần xác cũng như
phần hồn. Gần đó tôi thấy rất nhiều cặp nạng được treo trên tường. Ðiều này chứng
tỏ những người tật nguyền đã được chữa lành rồi bỏ nạng lại ở đây. Chỗ khác
Thánh Giuse và kẻ sinh thì. Chỗ này là nơi để cầu nguyện cho người đã qua đời và
an ủi những ai mất người thân yêu. Tiếp theo là chỗ cầu cho có công ăn việc
làm, chỗ cầu cho con cái, chỗ cầu cho đức khiết tịnh của các bạn trẻ, chỗ cầu
cho gia đình, chỗ cầu cho không bị thần dữ cám dỗ và chỗ cầu cho Giáo hội… Mỗi
một chỗ, người điêu khắc đã tạc tượng Thánh Giuse theo ý chỉ cầu nguyện đó.
Những bức tượng này làm bằng đá cẩm thạch thật đẹp và rất có nghệ thuật!
Mỗi lần lên đền thánh tôi rất thích được quì
từng chỗ một để cầu nguyện. Cầu nguyện theo ý chỉ của bạn bè nhờ, cầu nguyện
cho chính mình và những người thân..
Phía sau bức tường có tượng Thánh Giuse đứng chính
giữa. Ðó chính là mộ thánh Brother André. Ai đến viếng, cũng đặt tay lên mộ
thánh Brother André để cầu nguyện. Riêng trái tim của Ngài, người ta đưa lên trên
lầu của đền thánh để được tôn kính. Bầu khí nơi đây thật linh thiêng!
Sau 40 năm xây cất, từ năm 1924, VCTĐ đã được
hoàn tất. Nhà thờ lớn ở tầng trên cùng có sức chứa 2200 người và dành dâng các
thánh lễ chủ nhật và các ngày lễ trọng. Dome (vòm) trên đỉnh đền thờ lớn vào
bậc nhất thế giới với đường kính 30 mét. Từ dưới lên đến trên đỉnh cao 91 mét,
dài 65 mét và rộng 37 mét. Có 283 bậc thang từ dưới lên trên. Bên ngoài đền
thờ, từ dưới đất lên đến nhà thờ hầm (crypt) có 99 bậc thang được làm bằng gỗ
dành cho những ai muốn hãm mình cầu nguyện. Có nhiều người đi lên bằng hai đầu
gối. Có nghĩa là quỳ để đi lên. Nhìn họ quỳ để lên, tôi cảm thấy xấu hổ vì lần
nào tôi cũng muốn xe đậu ngay trước cửa nhà thờ để đỡ mệt. Lạy Chúa xin tha tội
con lười biếng.
Trở lại chuyện đoàn hành hương. Chính vì nạn kẹt
xe, không còn giờ, nên dự tính đi thăm mọi nơi trong đền thánh Giuse không còn
kịp. Ðoàn hành hương cũng muốn đến viếng thăm Vuơng Cung Thánh Ðường Notre-Dame
cũng không được vì đường đi vào đang bị sửa. Ngay cả giờ lễ và nơi dâng thánh
lễ cũng bị thay đổi. Thay vì hai cha Phong và cha Toan dâng lễ tại nhà thờ hầm
(Crypt) lúc 5:45 chiều thì đổi lại dâng lễ tại một nhà nguyện (Chapel) vào lúc
4:30 chiều.
Tội nghiệp cha Phong và Ban tổ chức phải lo đi
kiếm từng người để đưa về nhà nguyện cho kịp giờ dâng thánh lễ. Trong khi chờ
đợi, cha Phong đã chia sẻ về Tu Đoàn Nhà Chúa. Đây là một Tu Đoàn được thành
lập tại VN vào năm 1630 (có trên 350 năm) do cha Alexandre de Rhodes thành lập
tại miền Bắc dưới danh xưng Tổ chức Nhà Đức Chúa Trời để đào tạo các Thày Giảng
cho công cuộc truyền giáo tại Việt nam. Trong những giai đoạn đạo Chúa bị cấm
đoán và bách hại, các giáo sĩ người ngoại quốc bị lùng bắt, thì các Thày Giảng
của Tu Đoàn là những chiến sĩ can trường đã lặn lội khắp nơi, đồng hành với
giáo dân để cũng cố niềm tin cho họ và loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi
người. Các tu sĩ cũng đã lấy máu đào để minh chứng niềm tin.Trong số 118 vị thánh
Tử Đạo Việt Nam đã có gần 20 vị thuộc Thày Giảng nhà Đức Chúa Trời trong đó Chân
Phước André Phú Yên là thày giảng tử đạo
đầu tiên. Nhưng tại sao người Việt Nam ít nghe và biết đến Tu Đoàn này?
Lý do là, sau năm 1954, hiệp định Geneve phân
chia hai miền Nam Bắc. Một số các linh mục tu sĩ lên đường vào Nam còn Tu Đoàn
miền Bắc thì bị cấm đoán và bị hạn chế trong mọi sinh hoạt. Tuy nhiên các Tu sĩ
Nhà Chúa vẫn âm thầm hăng say trong việc mở mang nước Chúa và như chúng ta đã biết
niềm tin của giáo dân miền Bắc thật sống động mặc dù thiếu vắng cha cố, mặc dù
họ phải gặp bao nổi gian truân để giữ đức tin và truyền lại cho con cháu. Trong
khi ở Miền Nam, các Tu sĩ Nhà Chúa phải cố gắng để củng cố lại Tu Hội và đặt cơ
sở để phát triển. Nhưng cũng có thể vì miền Nam được tự do Tôn Giáo, nên các
dòng tu lớn mà các Đấng sáng lập là người nước ngoài như Dòng Tên, dòng Đa Minh,
dòng Chúa Cứu Thế…Các cha đã đến cánh đồng truyền giáo Việt Nam để loan báo Tin
Mừng và đồng thời cũng tuyển sinh cho các nhà dòng của họ. Vì thế những dòng
tu, tu hội của chính người Việt Nam thành lập đã không được chú ý đến nhiều. Thật
đáng buồn vì người Việt mình hay có tính vọng ngoại, ưa chuộng dòng ngoại quốc
hơn dòng Việt Nam, ít có người quan tâm và nâng đỡ những dòng tu do chính người
Việt lập nên. Do đó Ơn Gọi Tu sĩ Nhà Chúa
đã bị ảnh hưởng không kém.
Để
biết thêm hình ảnh hành hương và sinh hoạt Tu Đoàn Nhà Chúa, xin quý vị vào:
http://www. Nhachua.net
Những điều nhận xét trên là qua cảm nghiệm bản
thân. Tôi cũng đã rơi vào tình cảm thiên tư ấy. Khi còn ở quê nhà tôi cũng có
những suy nghĩ thiển cận là các dòng tu từ ngoại quốc họ học giỏi hơn, giàu
sang hơn và cởi mở hơn, cho nên nhìn các dòng tu “made in VN” dưới cái nhìn
không mấy thiện cảm!
Nhờ cha Phong chia sẻ một chút về Tu Đoàn tôi
như người sực tỉnh sau một cơn mê dài. Tại sao tôi không nâng đỡ người của tôi.
Tôi cũng là người Việt mà. Hơn nữa các dòng tu của người VN đã giúp cho người
Việt giữ và làm sống động những nét văn hoa của nền Văn Hoá Việt Nam. Những
thành kiến bấy lâu nay làm tôi thêm xấu hổ và hứa với lòng:
Ta về
ta tắm ao ta
Dù
trong dù đục ao nhà vẫn hơn!
Cầu xin Chân Phước André Phú Yên và các tiền
nhân cầu giúp để con biết trở về nguồn và hãnh diện vì con là con cháu các
Thánh Tử Đạo Việt Nam.
Trong thánh lễ cầu cho ơn thiên triệu, Cha Phong
đã nhấn mạnh đến cuộc hành hương. Đây không phải là một cuộc đi du lịch, hay
thăm viếng danh lam thắng cảnh, cũng không phải chú tâm đến đây để cầu nguyện
bắt Chúa nghe lời chúng ta. Nhưng chúng ta đến với tâm tình khiêm tốn, hoán
cải, ăn năn và cám tạ muôn vàn Hồng Ân Chúa đổ xuống trên chúng ta qua Thánh cả
Giuse và thánh Anna. Ðồng thời chúng ta suy gẫm và học về đức Khiêm Nhường nơi
thánh Cả Giuse và thánh Brother André. Thánh Brother André là chứng nhân của
một niềm phó thác đời mình cho Thiên Chúa qua việc liên lỉ cầu nguyện, sống
trong tâm tình đơn sơ và khiêm tốn. Thày André là một đứa trẻ mồ côi mất cha mẹ
năm 12 tuổi, không được học hành nhiều nên Bề trên đã giao cho Thày phận sự giữ
cổng. Với chức vụ khiêm tốn ấy thày đã làm trong sự kết hợp mật thiết với Chúa
bằng lời cầu nguyện và với lòng khiêm nhường thày đã cho những người mà thầy mở
cổng hằng ngày một niềm vui một sự bình an và qua thánh cả Giuse mà thày hết
lòng tôn kính và coi như Ðấng bảo trợ của thày và qua Thày Chúa đã chữa lành
cho biết bao người về bệnh tật cũng như ơn hoán cải. Tiếng đồn về một thày nhân
đức thánh thiện ngày càng lan xa. Nhiều người đã tìm đến với thày. Thày luôn
luôn nói với họ: “Chính lòng thương xót của Chúa và qua thánh cả Giuse cầu bầu,
Chúa đã chữa lành anh chị em chứ không phải tôi.”. Trong tâm tình khiêm tốn và
âm thầm với nhiệm vụ giữ cửa, ngài đã
thu hút được nhiều linh hồn về với Chúa và ngày qua ngày từng đoàn hành
hương từ khắp nơi đã đến đây hành hương và rồi một đền thánh nguy nga được hoàn
thành như chúng ta đang hiện diện do chính con người khiêm tốn ấy xây dựng nên.
Nếu chúng ta biết sống trong tâm tình khiêm nhường, đơn sơ và kết hợp mật thiết
với Chúa trong lời cầu và để Chúa hướng dẫn đời ta thì chắc chắn Chúa sẽ dùng
ta như ý Chúa muốn và mọi việc trong đời ta sẽ tốt đẹp. Thế nhưng, làm thế nào
để được có một tâm hồn như thế. Cha đã nhấn mạnh về hai chữ: NGHE và NÓI. NGHE,
chúng ta phải biết lắng nghe lời Chúa qua Tin Mừng, qua Giáo Hội, qua các đấng
Bản quyền để không bị sai lạc, không bị chao đảo trong niềm tin. Đồng thời cũng
phải biết lắng nghe từ anh chị em với trọn vẹn lòng yêu mến. NÓI, chúng ta còn phải nói, nói trong tâm
tình yêu thương, tâm tình khiêm nhu và trong ý thức là mỗi khi chúng ta nói,
mỗi lời chúng ta nói là một sứ vụ đưa Tin Mừng của Chúa đến cho người mà chúng
ta tiếp xúc.
Tuy nhiên, trong đời sống hằng ngày phải đối
diện với bao tình huống, cũng khó cho chúng ta thực thi những điều trên. Biết
bao lần chúng ta đã bịt tai lại không lắng nghe. Có khi chúng ta có lắng nghe
nhưng chỉ bằng tai mà chưa nghe bằng chính con tim của chúng ta. Chúng ta như
người ĐIẾC. Điếc trong định kiến: Nhìn người đó với con mắt khinh khi, hay hằn
học. Điếc khi chúng ta không muốn đón nhận những ý kiến hay, đúng của người
khác. Ta như đóng kín cõi lòng để bỏ ngoài tai những lời kêu van của những
người kém may mắn hơn chúng ta. Có khi chúng ta còn hợm hĩnh tưởng mình là đỉnh
cao của vũ trụ mà khinh chê người khác, mặc dù khả năng và sự hiểu biết của
chúng ta chỉ là một hạt cát trong sa mạc mênh mông! Một cái Điếc tệ hại hơn là
chúng ta đóng kín lòng trí về mặt thiêng liêng là không muốn đón nghe lời Chúa.
Không tuân giữ lời Chúa, không sống lời Chúa, không thực hành lời Chúa và cũng
không rao giảng lời Chúa.
Cánh đồng truyền giáo thì mênh mông hơn 5 tỷ
người trên thế giới vẫn chưa biết Chúa. Ngày nay, chúng ta đang sống trong một
thế giới văn minh, vật chất và đề cao tự do cá nhân, hưởng thụ… mà thiếu đi sự
cảm thông và đối thọai. Giáo hội cần nhiều tông đồ nhiệt thành để rao giảng lời
Chúa. Ơn gọi tu trì bị sa sút, nhưng đừng thất vọng, hãy cầu xin Chúa là Mục Tử
nhân lành sai nhiều thợ gặt đến trên cánh đồng truyền giáo mênh mông. Chính chúng ta cũng có bổn phận truyền giáo
và hỗ trợ công cuộc truyền giáo bằng lời cầu nguyện và sự trợ giúp tùy khả năng
của mỗi người. Đó là một mệnh lệnh mà trong sắc lệnh của Công Đồng Vaticanô II đã
đề ra.
Xin Thánh Cả Giuse, thánh Brother André cầu bầu
cho chúng ta, để mỗi người biết được trách nhiệm truyền giáo, đưa Tin Mừng của
Chúa đến cho những người chưa biết Chúa vì chính Chúa đã truyền cho chúng ta: “Anh
em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.
(Maccô 16, 15)
Vì thế, chúng ta hãy học sống gương Khiêm nhường
của Thánh Cả Giuse, thánh Brother André để chúng ta nên là chứng nhân của Chúa
và tiếp nối sứ mệnh Tông Đồ của cha ông chúng ta.
Sau thánh lễ, chúng tôi lên xe để đi đến đền
thánh Anna. Đền thánh Anna thuộc tỉnh Quebec trong tiểu bang Quebec, cách
Montreal 3 giờ lái xe. Lại kẹt xe! Tôi ở Canada nên không lạ khi thấy kẹt xe vì
đường xá đang được sửa chữa sau mùa đông tuyết phủ kéo dài làm đường xá bị hư
hao.
Ra khỏi thành phố, xe đi lần qua các cánh rừng.
Dưới ánh nắng của buổi chiều tà, nhìn mặt trời xuống rất gần trên những ngọn
cây, chiếu những tia sáng lung linh trên dòng sông khi xe leo lên những cây cầu,
lòng tôi dâng lên một chút xao xuyến và thầm cám ơn Chúa vì những việc lạ lùng
Ngài đã làm! Ngồi gần tôi, em Loan cứ hỏi tôi: “Tới chưa chị?” Em nghĩ là tôi
biết đường, nhưng thú thật tôi có biết gì đâu vì những lần đi Quebec tôi cũng
chỉ ngồi nhìn và mặc cho xe chạy thôi mà. Tuy nhiên khi nghe em hỏi tôi cũng
đáp: “Sắp rồi em!” Và tôi đã nói câu này với em không biết bao nhiêu lần! Có lẽ
em nghĩ tôi nói xạo. Sau này, trên đường về chúng tôi vui với câu nói “Sắp rồi
em” vì em đã hiểu đó là câu mà tôi nói để như có niềm vui và hy vọng. Nếu tôi
trả lời bằng câu “Chưa đâu em” hoặc “Còn lâu em” thì có lẽ em sẽ chán nản, mệt
mỏi và có khi còn thở dài nữa!
Hơn 9 giờ đêm chúng tôi
mới đến đền Thánh Anna. Tôi vui mừng quá đổi và thầm kêu: “Nhà Ngọai đây rồi,
con về thăm Ngoại đây.” Vì đã khuya, thánh đường đã đóng cửa nên chúng tôi đi nhận
phòng. Trong khi chúng tôi được thoải mái lo việc riêng thì Ban tổ chức đã lo
đi mua thức ăn tối cho chúng tôi vì phòng ăn của trung tâm cũng đã đóng cửa.
Nhìn các anh chị trong Ban tổ chức quá chu đáo, và lúc nào cũng nở nụ cười, tôi
cảm thấy thật ấm lòng và cám tạ Chúa đã cho tôi được thấy những bông hoa phục
vụ quên mình. Tôi đã cầu nguyện cho các anh chị đó thay lời cám ơn!
Sau một giấc ngủ đêm an lành, chúng tôi thức dậy
sớm để tham dự thánh lễ. Phụng vụ hôm nay mừng kính lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Ðền
thánh Anna như là một dấu chỉ yêu thương của Bà Ngọai cho tôi. Năm Ðại Hội Thánh
Thể thế giới, vợ chồng tôi đến đây và được chọn để dâng của lễ chung với cộng
đoàn người Tây. Hôm đó tôi cảm động quá sức vì như một tình cờ, cha người Tây
phụ trách hỏi tôi ở đâu đến tôi trả lời tôi là người VN đến từ Toronto. Cha đã
mời chúng tôi dâng của lễ. Ðến khi dâng của lễ, cha lại giới thiệu chúng tôi
với cha chủ tế. Tôi đã giữ kỷ niệm đẹp đó từ nhiều năm và lần này trong thánh
lễ cha Phong lại cho tôi được đọc Bài Đọc một và Đáp Ca. Tôi cũng lo sợ lắm
chứ, vì giọng nói của của một người có tí tuổi làm sao thanh thoát cho bằng các
bạn trẻ. Nhưng vâng lời cha, tôi đã đón nhận và cho rằng đây là một món quà mà
bà ngoại lại cho tôi. Hôm nay bà Ngoại lại cho thêm món quà khác cho cả đoàn
hành hương là tất cả chúng tôi được lên gian cung thánh tham dự thánh lễ. Vây quanh các linh mục đồng tế, tôi cảm thấy
bầu khí quá đổi thân thương, ấm cúng như những lần tôi về quê thăm ngoại tôi
khi tôi còn nhỏ.
Trong thánh lễ cha Phong đã giảng về Tình yêu
thương của Chúa qua Thánh Tâm của ngài trong bí tích Thánh Thể. Ngài kể câu
chuyện khi Tổng Thống Abraham Lincoln qua đời, có một bà mẹ người da đen dẫn cậu
con trai đến viếng xác. Bà chỉ vào xác vị tổng Thống quá cố và nói với cậu con
trai: “Người này đã chết cho chúng ta”. Đúng thế, vì ông đã muốn xóa bỏ nạn kỳ
thị chủ-tớ, cũng như giải phóng cho những người da màu nên Tổng Thống Abraham
Lincoln đã bị ám sát ngày 14 tháng 4 năm 1865. Chúa Giêsu cũng đã chết cho
chúng ta trên Thập Tự Giá để giải thoát chúng ta khỏi tội và còn hơn thế nữa
Chúa còn ở với chúng ta hàng ngày trong Bí Tích Thánh Thể. Trong Bí Tích Thánh
Thể Chúa đã cho chúng ta chính Trái Tim yêu thương của Ngài. Trái Tim Chúa là
lò lửa yêu mến. Chúng ta hãy mở tai ra để nghe những lời giáo huấn đầy yêu
thương của Ngài, hãy mở miệng để ca tụng tình yêu thương vô biên của Ngài vì
không có tình yêu nào mãnh liệt cho bằng chính Chúa đã chết cho chúng ta là
những người con yêu của Chúa.
Hôm nay,Mừng Kính Lễ Kính Thánh Tâm Chúa, chúng
ta hãy là nhân chứng cho tình yêu đó. Thế giới đang bị soi mòn về niềm tin,
chúng ta phải cố gắng vực lại niềm tin. Xin Thánh Tâm Chúa tha thứ những lỗi
lầm của chúng ta. cải đổi tâm hồn chúng ta trước khi chúng ta có thể cải đổi
thế giới. Cha tóm lại, chúng ta đi hành hương là để học hỏi đức tính Khiêm
Nhường và hối cải chừa bỏ những những đam mê trong mỗi con người chúng ta.
Mặc dù còn lưu luyến,
chúng tôi cũng phải lên xe trở về. Lần này, xe chạy lối xa lộ, nên có vẻ như
nhanh hơn. Trời nắng đẹp và trong xanh. Tôi thả hồn nhìn những cánh rừng bát
ngát xanh um hai bên vệ đường. Có lúc xe chạy trên những cây cầu cao và dài. Nhìn
dòng sông lững lờ uốn khúc, nước trong xanh, không thấy những tảng rác lềnh
bềnh, cũng không thấy bóng dáng những mảnh lục bình trôi theo dòng nước như
trên dòng sông Cửu Long quê tôi! Một cảm xúc nhớ thương về quê hương Việt Nam
nhè nhẹ đi vào hồn tôi. Tôi cảm thấy buồn cho quê hương tôi. Cũng một đất nước
giàu tài nguyên, những người dân hiền hoà sống bên những dòng sông tràn đầy
nhựa sống như dòng Cửu Long giang nơi mà cá tôm không biết bao nhiêu là kể để
nuôi sống dân miền Nam; dòng sông Hồng Hà đem phù sa cho những ruộng lúa nuôi
sống người dân miền Bắc, dòng Hương Giang thơ mộng trữ tình và còn bao nhiêu
dòng sông thân thương nữa, thế mà dân tộc tôi vẫn nghèo, dân tôi vẫn thiếu ăn,
thiếu mặc, thiếu nhân phẩm của một con người. Tại sao? Tại sao? Tôi thì thầm
cầu nguyện cho quê hương, thay cho tiếng thở dài!
Chỉ vỏn vẹn có hai ngày hành hương, nhưng những
kỷ niệm thân thương đã để lại trong tôi những cảm xúc dạt dào qua sự tổ chức
chu đáo của Ban Tổ Chức mà anh Bình là trưởng ban, qua sự quan tâm săn sóc đoàn
hành hương của hai cha và các thày. Rồi qua quý bác, quý anh chị em trong đoàn
đã cho tôi nhớ mãi tình thương của từng anh chị qua nụ cười, qua cử chỉ thân thương..Nhất
là qua những chia sẻ trong hai bài giảng rất xúc tích của cha Phong.. Cám tạ Chúa
đã cho con có chuyến hành hương này và ngày lại ngày HồngÂn nối tiếp Hồng Ân.
Viphương
July- 1-2011
No comments:
Post a Comment